Con đường thứ hai (nối từ Pari sang): Trong khi sống, lao động, nghiên cứu CNTB tại Âu – Mỹ gần 10 năm, tại Pari, Hồ Chí Minh đã tham gia trình bày, thuyết phục, kiến nghị đủ mọi cách với nhà nước Pháp về nguyện vọng độc lập dân tộccủa VN, nhưng không kết quả gì, trong khi đó, Quốc tế CS I của C. Mác thì đề ra mục tiêu “đấu tranh giải phóng dân nghèo”, nên Hồ Chí Minh đã tham gia thành lập đảng CS Pháp chỉ vì mục tiêu rõ ràng nói trên. Sau đó Quốc tế CS III của Lênin lại có mục tiêu phụ nêu rõ “đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa” đã hấp dẫn và cuốn hút HCM bỏ Pari sang Moscou theo Stalin. Tại đó, HCM đã “ra nhập” với tập thể người Việt hướng theo “cách mạng vô sản” từ trong nước sang.
Sự khác nhau từ xuất sứ nên đã nẩy sinh sự khác nhau giữa hai luồng tư duy “Cách mạng vô sản Mác – Lê” trong những người cách mạng VN:
a) Nhóm thứ nhất là những người chưa sống với CNTB ở chính quốc, mới hiểu chủ nghĩa Mác – Lê chủ yếu thông qua tài liệu tuyên truyền và học tập tại các trường lớp huấn luyện của Stalin. Có 2 vị người Việt ta đã tham gia Ban Chấp hành QTCS do Stalin chủ trì.
b) Nhóm thứ hai, nổi rõ nhất là Hồ Chí Minh: Những người đã khảo sát thực tiễn cách mạng tại một số nơi, cụ thể là đãnghiên cứu trên thực địa CNTB và cách mạng tư sản tại Âu, Mỹ, . . ., đồng thời sau đó cũng đã nghiên cứu tại thực địa vềcách mạng vô sản độc đảng toàn trị của Stalin với những khuyết tật nặng nề của nó trong gần 10 năm. Chính vì vậy, hiểu biết và tư duy của Hồ Chí Minh khác biệt dần dần và rõ ràng với đường lối CM Mác - Lê chính thống, nên đã bị không chỉ giới lãnh đạo QTCS đứng đầu là Stalin cảnh giác , mà ngay nhóm cách mạng người Việt cũng phát hiện, (chính vì vậy Hồ Chí Minh không được QTCS tin tưởng, nên không có chân trong Ban Chấp hành QTCS).
Kết quả là không chỉ Stalin không tin, mà ngay những đảng viên CS Việt Nam cũng không tin vào tư duy và ”lòng trung thành” vào CN Mác - Lê của Hồ Chí Minh. Tư duy sáng tạo của HCM hình thành chuyển hướng dần dần, cuối cùng (1944- 1945) đã tạo ra một đường lối mới được chứng minh bởi mấy bằng chứng, sự kiện quan trọng công khai nhất, khẳng định dứt khoát nhất, không thể bác bỏ:
1. Hồ Chí Minh đã đưa ra đề cương “Cách mạng Dân tộc Dân chủ VN”, chứ không viết đề cương “Cách mạng Vô sản VN”. Chính vì vậy mà Stalin chủ trương hãm hại HCM (nhưng không thành), sau đó đã sai phái Trần Phú và Lê Hồng Phong (các UV ban CH QTCS) về nước tịch thu đề cương CM Dân tộc Dân chủ của cụ Hồ.
2. Hồ Chí Minh đã lập “Mặt trận đại đoàn kết toàn dân” bao gồm mọi thành phần: công, nông, binh, tư sản, thương nhân, trí thức và quan lại yêu nước, tức Việt Minh, chứ không theo đường lối “Trí phú địa hào: đào tận gốc, chốc tận rễ” như học trò của Stalin. Đã lập chính phủ liên hiệp đa nguyên, đa đảng, có cựu vua Bảo Đại và rất nhiều quan chức Triều đình Huế và trí thức từ Pháp về tham gia, chứ không lập chính quyền “Xô viết công nông” như Lênin. Đã cho xây dựng Hiến pháp 1946, học tập nội dung Hiến pháp Tư sản Pháp và Hoa Kỳ, chứ không học theo Hiến pháp nước Nga cộng sản;
3. Tại Pari, Hồ Chí Minh - đã được Chính phủ Pháp đón tiếp chính thức như một nguyên thủ quốc gia - Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề VN xin ra nhập Liên Hiệp Pháp (chứ không xin gia nhập khối Liên Xô), đã mời Hoa Kỳ vào đầu tư phát triển kinh tế tại VN, chứ không mời nước Nga Xô viết, mặc dù HCM quen biết nhiều nhân vật quan trọng ở cả Nga và TQ.
4. Hồ Chí Minh đã thuyết phục các đồng chí mình đổi tên đảng CS thành đảng Lao Động VN để đoàn kết toàn dân. . .
5. Di chúc là văn kiện tổng kết đời người, trong đó Hồ Chí Minh không nhắc gì đến CN Mác – Lê - Mao, đến CNXH,ngay cả “định hướng XHCN” cũng không có, tuy vẫn nhớ đến 2 vị lãnh tụ CS nổi tiếng thế giới đã hỗ trợ “công cụ” giác ngộ và kích động lòng căm thù thực dân xâm lược cho phong trào cứu nước của VN. . .
6. Một điều khác nữa: “Cộng sản Mác – Lê” là vô thần, nhưng Hồ Chí Minh tin là “có thần”, bằng chứng: Khi từ chiến khu về Hà Nội, Hồ Chí Minh đã kéo “quân” rẽ vào Đền Vua Hùng khấn vái, và nói trước toàn đoàn rằng, “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải quyết tâm giữ lấy nước”; Sau khi Mỹ bắt đầu phong tỏa cảng biển, đánh phá Miền Bắc, Hồ Chí Minh, kết hợp chuyến đi Hải phòng, đã rẽ vào Đền Kiếp Bạc khấn cầu Tổ tiên phù trì đánh giặc thắng lợi; Trước khi “động viên cục bộ 1965” đánh Mỹ, Hồ Chí Minh đã đến Chùa Trằm cầu khấn và ngồi tại đó để viết Hiệu triệu toàn dân (những sự kiện do chính Vũ Kỳ, thư ký riêng kể).
7. Không phải ngẫu nhiên, sau này khi tổng kết cuộc đời, Hồ Chí Minh đã không nhắc gì đến Lê Nin, Mao Trạch Đông . . . mà chỉ suy tôn Đức Phật Thích ca (về lòng từ bi), Chúa Giê su (về đức tin bác ái), Các Mác (về phép biện chứng), Tôn Trung Sơn (về chủ nghĩa tam dân: Dân chủ, Dân quyền, Dân sinh), và nói rằng, nếu các vị ấy mà sống lại, chắc chắn họ sẽ là những người bạn tốt của nhau, và “tôi nguyện là người học trò của các ông ấy” (HCM tuyển tập).
8. . . .
Vậy chắc chắn Hồ Chí Minh không theo CN Mác – Lê.
Một dấu hiệu nữa chứng minh điều đó là đã có thời kỳ Đảng CSVN đã chấp nhận công thức: “Chủ nghĩa Stalin, tư tưởng Mao Trạch Đông, và Đạo đức Hồ Chí Minh”. Nghĩa là, so về giác ngộ Chủ nghĩa Mác – Lê, thì Hồ Chí Minh còn “đuối” hơn Stalin và Mao Trạch Đông nhiều.
Nhưng tại sao Đảng CSVN lại coi HCM là một chiến sĩ của phong trào CS thế giới, của CN Mác – Lê ?
1. Tại vì sau khi dành độc lập 1945, Pháp đã quay lại xâm chiếm VN lần thứ hai với sự giúp đỡ của Hoa Kỳ. VN không chấp nhận trở lại làm thuộc địa của Pháp lần nữa. Sau nhiều lần thương thuyết không thành công, Pháp tự tiện xé bỏ Hiệp ước 8 – 3, nên nước VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA đành phải chiến đấu chống lại Pháp (*)
2. Trong tình thế như vậy, VN đành phải cầu xin viện trợ, tức là đi với Nga và Trung Quốc từ 1950. Cái giá mà Hồ Chí Minh phải trả đó là Cách mạng VN buộc phải quay lại đi với CN Mác – Lê và CM XHCN do Liên Xô lãnh đạo, mà như trên đã nói: Hồ Chí Minh đã có dịp so sánh giữa 2 loại thể chế này và đã chọn thể chế nào khi còn được chủ động.
3. Mặt khác, Đảng mà HCM sau này đã nắm quyền lãnh đạo để tập hợp lực lượng, đoàn kết tạo ra CM tháng 8, vốn đã được ra đời trên tư duy Xô viết Nghệ Tĩnh, Cách mạng tháng 10 Nga, và sau này là CN Mác – Lê, vì Đảng CSVN chưa kịp chuyển theo tư tưởng Hồ Chí Minh với đường lối “Tự do Dân chủ Cồng hòa”, thì đã bị động phải quay về với cái tư duy ban đầu đã sinh ra nó, lại đáp ứng yêu cầu thời chiến .
Chúng ta thử tưởng tượng xem, nếu Pháp chấp nhận trả lại độc lập cho VN, như nước Anh, nước Bỉ . . .đã làm sau đại chiến thế giới II đối với các thuộc địa của họ (nghĩa là không nổ súng gây chiến tranh cướp lại Đông Dương lần thứ II), và Mỹ đã vào đầu tư làm ăn với VN từ 1947-48 (như đã vào đầu tư phát triển kinh tế tại Trung Cộng sau khi Mỹ thua tại VN) thì liệu Hồ Chí Minh có phải “đi van lạy” xin viện trợ giúp đỡ, hay “đi bán nước” , hoặc đi xin làm “tay sai” cho Nga Xô và Trung Cộng như nhiều người không am hiểu tường tận lịch sử và đã vu cáo không? (Nên trả lời xem chính quyền Việt Minh của Hồ Chí Minh giai đoạn còn chưa bị Pháp và Mỹ ép buộc từ 1945 - 1950 có những yếu tố gì là Cộng sản kiểu Nga Xô và Trung Cộng?Và tại sao Ngô Đình Diệm lại bí mật “liên hệ” bắt tay với Việt Minh và do đó đã bị Mỹ thủ tiêu? Hãy hỏi ông bà Bill Clinton xem có đúng là Hoa Kỳ đã sai lầm chiến lược đối với VN từ giữa thể kỷ XX hay không ?)
Lại xin nói thêm:
1/ Để làm mất “ấn tượng xấu” của Stalin về Hồ Chí Minh (không theo, thậm chí chống lại “cách mạng vô sản kiểu Nga”) thì trước nguy cơ mất nước một lần nữa, cần đến sự giúp đỡ quốc tế, Hồ Chí Minh phải “diễn” vai “đồng chí” tuyệt giỏi như thế nào với Stalin và Mao Trạch Đông, và ngay cả trước đồng bào, đồng chỉ của mình (mà nay người ta vu cho là bán nước cho CS)? Câu chuyện này nó nằm trong phạm vi “triển khai”, bị động, giống như một người đàn bà đành phải ngoại tình để có tiền nuôi con đẻ cùng với chồng mình.
2/ Chính việc Pháp, có Mỹ đứng đằng sau, quyết tâm đánh gục Việt Nam đã giúp làm cho Stalin bỏ nghi ngờ Hồ Chí Minh có tư duy và mục tiêu “cách mạng tư sản”. Mặt khác, chính Liên Xô và Trung Cộng hết sức giúp Việt Nam đánh Tư bản Pháp đã làm Mỹ càng khẳng định rằng, có lẽ ông Hồ chính là một người “cộng sản” đích thực.
3/ Với sự nhầm lẫn to lớn của Loài người (1/3 Nhân loại đã tin theo CN Mác - Lê) và sai lầm của riêng Pháp và Mỹ như vậy, nên sự phát hiện quá sớm và sáng suốt của Hồ Chí Minh (về sự chưa ổn của CNCS và sai lầm của mô hình XHCN kiểu Stalin) đã làm Người trở thành thiểu số thảm hại không chỉ đối với phe XHCN, mà còn là thiểu số thảm hại ngay tại Việt Nam, giữa các đồng chí thân cận và đồng bào của Người. Bạn không thể tưởng tượng được HCM đã phải chấp nhận tiểu sự sai lầm để giữ vững đại sự như thế nào! Sự giúp dỡ to lớn của Liên Xô và Trung Quốc đối với VN, trong đó có cả đào tạo ý thức hệ CS và tư duy “độc đảng toàn trị” – đương nhiên vì mục đích chính của họ là bảo vệ phe XHCN và mở rộng phạm vi CN Mác – Lê, và cũng là để TQ thực hiện được mục tiêu Đại bá lâu dài mang tính truyền thống Trung Hoa về sau này – đã ngẫu nhiên dẫn đến sự “giác ngộ” và lòng tin thật thà của hầu hết đảng viên CSVN và cả dân chúng VN vào CN Mác – Lê và CNXH kiểu Stalin. (Chính tôi đã xác minh lại được thông tin: Hồ Chí Minh đã suýt bị một số chiến hữu VN cuồng tín Mác – Lê – Mao âm mưu sát hại tại sân bay Gia Lâm, và để đảm bảo không gây hoang mang, mất đoàn kết nội bộ, HCM đã ra chỉ thị dấu biệt sự kiện này).
Cần khẳng định (theo kết quả nghiên cứu nghiêm túc đã công bố chính thức vừa qua của Viện SENA tại số 35 đường Điện Biên Phủ, Hà Nội), Học thuyết cách mạng vô sản Mác – Lê là “Chia rẽ và Cực đoan”, còn Học thuyết cách mạng Dân tộc Hồ Chí Minh có bản chất khác hẳn, là “Đoàn kết và Sáng tạo” Ai chưa thừa nhận sự kiện này và có quan tâm xin liên hệ với Viện nói trên.
Hồ Chí Minh chỉ muốn làm “Cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam” trên tinh thần “Đoàn kết – Sáng tạo”; Chính những thành viên người Việt trong Ban Chấp hành QTCS của Stalin mới thực sự là những người đưa Chủ nghĩa Mác – Lê (hay Chủ nghĩa Cộng sản) vào VN, nếu muốn khen, hay muốn chê thì cần khách quan, trung thực.
- Hơn 50 năm qua, sai lầm tầm thế kỷ của Pháp và Mỹ đối với VN bắt đầu từ 1946 -1947, khi họ cho rằng Hồ Chí Minh chủ tâm đưa CNCS Mác – Lê vào VN và do đó phải ngăn chặn, thậm chí tiêu diệt “CSVN” để chống sự lan tỏa Chủ nghĩa Mác – Lê xuống ĐNÁ. Chính sai lầm tệ hại đó đã rất ngẫu nhiên đẩy VN vào con đường sai lầm và khốn khổ của thể chế độc đảng toàn trị mất dân chủ kéo dài, vào cái bẫy chiến tranh “ý thức hệ”khốc liệt của thế giới.
- Để đoàn kết được toàn Đảng, toàn Dân, Đảng CSVN cần đổi mới, dứt khoát quay về với chính mình tại thời điểm 1945 – 1950, là lúc Đảng thực lòng nhận biết sức mạnh thực sự của Dân tộc nằm ở nơi Dân, Đảng chỉ là người tổ chức nghiêm chỉnh việc thực hiện đường lối Tự do dân chủ, tức Dân làm chủ.
Tóm lại: Hồ Chí Minh trước hết là một người yêu nước chân chính, có tư tưởng thiên về Cách mạng Dân chủ tư sản, nhưng đã bị động, tuy nhiên cũng đã biết biến báo, tận dụng khéo léo những khía cạnh có lợi cho cách mạng VN từ phía Chủ nghĩa Mác – lê, từ cách mạng XHCN và trào lưu tiến hóa văn minh của thế giới. Nếu chưa thừa nhận được Hồ Chí Minh là anh hùng vĩ đại cứu nước của dân tộc, thì hãy từ bỏ thật lòng suy nghĩ cực kỳ sai lầm rằng Hồ Chí Minh là tội đồ của Dân tộc VN. Hãy nhận ra những kẻ thù chính của VN thể kỷ vừa qua, (mặc dù không có kẻ thù nào là vĩnh cửu cả), chứ đừng thiển cận mà cứ lấy đá ghè vào chân mình.
Tất cả những cái gì khác với những kết luận trên đây, kể cả các tư liệu do Đảng CS các nơi biên soạn, hoặc là “dích dắc” biến báo trong triển khai (**), không có tầm quan trọng, hoặc là đồn thổi, ca ngợi tô điểm "sùng bái cá nhân",“tâng bốc” hay cố tình bịa ra để "bảo vệ uy tín" lãnh tụ và cách mạng, hoặc là bị bóp méo vì nhiều lý do, thậm chí bị bịa đặt vì mục đích chống phá cách mạng Việt Nam (ngay hiện nay vẫn có những Việt cộng chính hiệu bị ăn bả xuyên tạc đã hiểu sai trầm trọng về HCM). Đương nhiên chúng ta cũng không cần xem xét những cái tốt hoặc có thể sai lầm cá nhân vụn vặt, của những con người đời thường, bởi đã là con người, thì chỉ trừ hoàn cảnh bắt buộc, còn ai cũng có những nhu cầu thói quen của con người như nhau mà thôi.
(**) Lịch sử chi tiết về xuất thân, gia đình, đời riêng, tên tuổi và quá trình tiệm cận đến các dạng cách mạng khác nhau trên thế giới . . ., trong đó có loại thông tin do lịch sử biến động và truyền tải thiếu chính xác, thậm chí bị sai lệch với thực tế; có loại vì “lợi ích cách mạng” mà bị “các đ/c” tác động, ngăn cản, thậm chí thay đổi cả sự thật . . . ; có loại do kẻ thù dèm pha, bóp méo, thậm chí bịa đặt hoàn toàn để hạ uy tín HCM và chống phá cách mạng VN . . .Chúng ta nên cảnh giác để không bị những tiểu tiết đó làm phân vân, hoang mang . . .
Bài hai:
II- Giai đoạn sau 1975:
Để đánh giá đúng, cần rà lại khái quát các sự kiện:
1. Điều quan trọng nhất mà TQ muốn ở VN là:
- VN phải là một đồng minh luôn thuận theo hệ tư tưởng của TQ;
- Bắc VN phải là “phên dậu” để bảo vệ TQ (như Đông Đức và Bắc Triều tiên);
- Khi điều kiện cho phép, VN phải trở thành một bộ phận của TQ, như Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông , .đó là ước mơ từ ngàn đời nay của Chủ nghĩa Dân tộc cực đoan Đại Hán.
Vì sau khi tận lực giúp VN đánh Mỹ thắng lợi, cuối cùng VN đã không thỏa mãn 3 yêu cầu đó của TQ. Vì vậy, TQ “điên lên”, o ép, phá phách các kiểu VN, kể cả gây chiến tranh chống VN. Nhưng TQ đã quá tham lam, vô ơn và rất vô nhân đạo: Chiến thắng Hoa Kỳ của VN đã giúp TQ có được một vị thế đủ để Mỹ phải xuống thang ký với TQ hiệp định tại Thượng Hải, rất có lợi cho TQ vươn lên về kinh tế như đã thấy, và cũng mở đầu một sai lầm mới rất chiến lược của Mỹ và phương Tây.
2. Điều quan trọng nhất mà Mỹ muốn ở VN từ 1947 là:
- Ngăn chặn làn sóng Cộng sản tràn xuống Đông Nam Á (!);
- Giúp Pháp chiếm lại thuộc địa.
Nhìn lại toàn cục mới thấy Mỹ đã phạm sai lầm về chiến lược và về đạo đức từ 1947 tại VN rất có hại cho chính nước Mỹ và phương Tây dân chủ. Sau khi thua tại VN năm 1975, Mỹ lại một lần nữa đã lẫn lộn vị trí chiến lược giữa TQ và VN tại vùng ĐNÁ và trên bàn cơ thế giới. Hơn thế Mỹ còn lẫn lộn, nhận thức còn lộn xộn về lý luận (Ít nhất là giữa CN Mác – Lê với tư tưởng Hồ Chí Minh). Nay Hoa Kỳ và phương Tây đã nhận ra đầy đủ sai lầm chiến lược và tự nguyện đứng ra trả giá, sửa sai, và thấy có trách nhiệm ủng hộ và hỗ trợ VN là một dấu hiệu tốt lành.
3. Sau 1975, Đảng CSVN đang say mê chiến thắng, thiếu minh triết trong xây dựng hòa bình, chưa giỏi tổ chức quản lý xã hội, lại bị cái thể chế "Độc đảng toàn trị mất dân chủ" do bị động mà ôm vào như một sự trả giá, trong khi thế giới đang hội nhập và sôi sục cạnh tranh .. . .nên đã mắc sai lầm ngày càng nhiều (xin xem phía dưới). Bây giờ chính Ban lãnh đạo tối cao của Đảng và Chính phủ đã nhận rõ, song, với tình hình các mặt hiện nay, sửa chữa thế nào cho ỔN ĐỊNH XÃ HỘI (tránh đổ vỡ) làm khổ nhân dân một lần nữa, mới là vấn đề lớn..
4.Tại sao lại có câu chuyện bịa đặt ”Việt cộng bán nước tại Thành đô ? ”
Sau khi VN không nghe theo TQ, kiên quyết chiến đấu thống nhất kỳ được đất nước, đã làm TQ điên lên, nẩy sinh âm mưu trả thù VN. Đầu tiên là súi dục và giúp Căm Pu chia tấn công vũ trang VN, nhằm chia cắt VN ra làm hai (không có TQ đứng đằng sau súi dục và giúp sức thì chắc chắn Căm pu chia dại gì mà làm như vậy !). Sau khi thất bại tại Căm Pu Chia, thì TQ càng điên lên hơn, không thể nhịn được, muối mặt cho quân tràn xuống phía bắc VN, bây giờ mới công bố công khai “Cho Việt Nam một bài học” làm chiêu bài ngoại giao quốc tế, trước hết là với LHQ và với phương Tây, đặc biệt là lấy lòng Mỹ. Điều đó liệu thế giới văn minh có chấp nhận cách sử sự quốc tế cuối thế kỷ XX như vậy được hay không?
Khi chống trả lại sự hung hăng cạy nước lớn bắt nạt nước bé của TQ, thì VN còn có đồng minh chính thức là Liên Xô giúp đỡ. Sau khi Liên Xô sụp đổ, VN mất đồng minh quan trọng nhất. Đông Nam Á thì chưa yên tâm với tình hình chung. Mỹ thì vẫn căm giận VN vì đã thất bại. Trong tình hình như vậy, một tin tình báo bịa đặt phóng ra làm giật mình lãnh đạo VN lúc bấy giờ: “Mỹ sẽ quay lại đánh chiếm VN !”. Thời xưa, một mình VN chống TQ còn có lúc thua, lúc thắng. Khi đánh Pháp Mỹ, có 2 nước lớn đồng minh là Liên Xô và TQ giúp đỡ hết mực. Nay nếu kẻ thù Mỹ “quay lại đánh VN”, trong khi một đồng minh chiến lược thì tan rã, một đồng minh CSTQ thì đã lộ nguyên hình kẻ thù thực sự. Nếu anh là mấy ông lãnh đạo VN lúc bấy giờ, rất mu mơ về thông tin, thiểu năng trí tuệ về phân tích chiến lược, thì anh chọn ai làm bạn để còn tồn tại? Mời Mỹ vào ư? Anh vừa đánh đuổi họ đi, nhân dân còn đang rất căm giận (do hậu quả tàn phá và chất độc mầu da cam) lại mâu thuẫn “ý thức hệ”. Tình thế buộc VN phải “xuống nước” cầu cứu anh bạn chiến lược cùng “Ý thức hệ” tuy tham lam bành chướng (và rất dã man) cũ. Đó là bản chất vấn đề có cuộc gặp chính thức “cầu cứu” tại Thành Đô. Trung Quốc được ván bài, VN thua nước cờ, nên phải mềm dẻo, quỵ lụy là lẽ thường tình. Nhưng nói là “Bán nước” là rất quá đáng, thiếu logic, vì nếu “CSVN” mà chịu bán nước cho TQ thì: 1/ Khi Mao muốn cho quân sang VN giữ Miền Bắc để Hồ Chí Minh đưa quân vào Miền Nam, thì Hồ Chí Minh đã nhận lời; rồi 2/ Với cuộc chiến biên giới 1979 thì mọi chuyện cũng đã xong rồi! Tương tự: Liệu ta có thể nói là TQ đã phải bán Hồng Kông và Đài Loan cho Anh và Mỹ hay không ? Hay đó chỉ là sách lược khi điều kiện chưa cho phép TQ thu hồi. Việt Nam đã mất hàng trăm năm mới dành lại độc lập từ Phong kiến TQ, mất 80 năm mới dành lại độc lập từ tay Thực dân Pháp, mất gần 30 năm mới hoàn thành thống nhất đất nước. VNCH muốn giữ Hòang Sa, trong khi đang có 2 đồng minh mạnh là Mỹ và Pháp đứng đằng sau, mà không giữ được, vậy có nên nói VNCH hèn nhát hay bán nước không ? Vậy nên có mấy cái đảo nhỏ, một nước bé và yếu hơn TQ tới 15 lần, dưới sự lãnh đạo mềm dẻo của “Cộng sản”, cần chờ đợi thời cơ thuận lợi (khi TQ đại khủng hoảng hay tan rã chẳng hạn) để đòi lại, thì cũng không thể coi là hèn nhát hay bán nước được! Bây giờ, với tài nhào nặn, biến báo, bịa đặt và kỹ thuật in sao chỉnh sửa siêu cấp (giống như khả năng in tiền giả hoặc làm cho tượng thạch cao cử động được vậy), thì người ta muốn có cái văn bản “bán nước” kiểu nào mà chẳng làm được. Nhất là trong tình hình đấu tranh mạnh mẽ, kịch liệt trên mặt trận tuyên truyền, ngoại giao hiện nay. Vậy là những “biên bản Bán nước” các kiểu, bịa đặt mọi câu chuyện vô đạo đức, thất nhân tâm cho lãnh tụ Hồ Chí Minh, đã được nhào nặn, sản xuất và công bố rộng rãi, đảm bảo nghe khá dễ lọt tai, kể cả những ai đã rất cảnh giác, thậm chí nhiều “cộng sản nòi” hiện nay cũng tin, nhằm gây hoang mang, chia rẽ nội bộ VN chúng ta trước thách thức mới.
5. Đã hết rồi giai đoạn cũ của cuộc sung đột tại Đông Dương và Biển Đông chỉ bó hẹp trong đụng độ “Ý thức hệ” và trong quan hệ mấy nước nói trên.
Việt Nam thực chất mới chỉ ở giai đoạn Vì nền Độc lập dân tộc và Thống nhất đất nước. Biết bao vấn đề, vấn nạn to lớn làm chúng ta dễ lẫn lộn rối mù. Nhưng hiện nay thể hiện rõ bản chất thực trạng như sau:
Năm (5) nhóm bệnh chết người cùng lúc kích hoạt cộng hưởng tác động lên xã hội VN. Cũng như nhiều nước nhược tiểu khác, trong quá trình biến động của thế giới, nếu không phải trả cái giá kiểu này, thì cũng lại chịu các thiệt thòi kiểu khác.
Thứ nhất: Việt Nam đã lợi dụng chiến thắng của Đồng minh và cao trào Cộng sản Quốc tế (các tầng lớp bị áp bức bóc lột nổi dậy) để dành Độc lập dân tộc và đấu tranh thống nhất đất nước (chứ không phải đã làm cách mạng vô sản), songchính vì Pháp muốn chiếm lại VN từ 1947, nên VN đã phải bị động, bị đẩy đến với cái CN Mác – Lê – Mao sai lầm, đã nhiễm nặng mô hình XHCN kiểu Liên Xô (độc đảng toàn trị mất dân chủ, đấu tranh giai cấp, cải cách ruộng đất, cải tạo công thương, tham nhũng, tiêu cực . . . cho nên, cái giá nhân dân Việt Nam phải trả, chính là những căn bệnh suy thoái đạo đức xã hội và kinh tế như Liên Xô và các nước Đông Âu đã nhiễm phải, đã dẫn họ đến tan rã (*).
Thứ hai: Để tránh khỏi sụp đổ như Liên Xô, sau khi chấp nhận vận dụng Cơ chế thị trường (không đi theo nhà nước pháp quyền tam quyền phân lập và xã hội dân sự để điều chỉnh, kiểm soát) từ những năm 80 thế kỷ trước thì VN , một nước nông nghiệp đi lên, lại phải chấp nhận những khuyết tật phổ biến của thể chế “Tiền tư bản chủ nghĩa” như Các Mác đã miêu tả.
Thứ ba: Mặt khác, không thể không tính đến mưu mô và hành động trả thù và phá hoại của Đại bá Trung Quốc đã diễn ra trên đất VN dưới biết bao hình thức và tệ nạn về mọi mặt khó mà kể hết và ai cũng thấy.
Thứ tư, những mâu thuẫn nội tại và thường tình của một đất nước bị chia cắt làm hai miền kéo dài(**) và vừa thoát khỏi cuộc chiến tranh kéo dài khoảng 30 năm nay mới bắt đầu vươn lên.
Thứ năm, vì nền kinh tế yếu kém và phụ thuộc nên đã là nạn nhân loại nặng của mọi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã xẩy ra . . .
Chúng ta thấy, nếu không có sai lầm chiến lược (đánh chiếm, ngăn chặn) của Pháp và Mỹ đối với VN từ năm 1947, thì chắc chắn VN chỉ chịu ảnh hưởng chủ yếu của nhóm khó khăn khách quan thứ 5 tác động.
Với 5 nhóm khó khăn nguy hiểm chồng chất nói trên, nếu không phải là Việt Nam, liệu còn nước nào chịu đựng nổi để đất nước vẫn ổn định và hòa bình phát triển như đang thấy?
---
(*) Nhiều người không thừa nhận thể chế chính trị Liên Xô sai lầm, mà chỉ thừa nhận sai lầm của lãnh đạo cụ thể của Liên Xô. Vậy nhân dân Liên Xô nổi tiếng anh hùng, há họ chịu im lặng hòa bình chấp nhận tan rã do thiếu sót chỉ của riêng lãnh đạo của họ ?!
(**) Hãy nhìn qua nước Đức và Triều tiên sẽ rõ hơn, để bớt “khắt khe” đòi hỏi ở lãnh đạo VN (từ nguồn gốc công nông ít học đứng lên dựng nước).
Hiện nay, với biết bao khó khăn tồn tại như nói trên, VN lại đang ở vị trí địa – chính trị đặc biệt nằm giữa cuộc sung đột mới của các thế lực quốc tế sau đây: Chủ nghĩa Đại bá Trung Quốc, Quyền lợi các nước Đông Nam Á, Quyền lợi các quốc gia khác trên thế giới, rõ nhất là phương Tây, đứng đầu là Mỹ. Trong cái thế “trận đồ bát quái” như vậy, hành xử thế nào để VN tránh khỏi lại một lần nữa trở thành bãi chiến trường của cuộc sung đột mới giữa 2 phe quốc tế?
Nếu anh ngồi vào cái vị trí của VN, liệu anh có xử lý tốt hơn VN ? Hay lại giống Ukraine. Mianma, Syri, Irac, Israen. v. v. . .hoặc như bán đảo Triều Tiên? Đặc biệt kết luận rằng sự suy thoái đạo đức xã hội, những tệ nạn tham nhũng tiêu cực v.v. . .tất cả đều là do cái sai lầm thể chế chính trị CS mà sinh ra hết là rất bất công. Nhưng nếu chỉ sửa chữa loanh quanh, mà không từ bỏ chế độ độc đảng toàn trị mất dân chủ hiện nay đi thì nhân dân ta không thể ngóc đầu lên được như đảng CSVN đang mong muốn. Tư duy khác nhau giữa những người đang nắm quyền lực và dân thường, giữa đất nước trong cuộc và đất nước ngoài cuộc, ngoài trí tuệ và tinh thần, còn một điều kiện rất quan trọng, đôi khi quyết định, đó là thông tin, đặc biệt là các thông tin tình báo mật và về tiềm lực thật sự bí mật của quốc gia. Vì vậy chúng ta cứ góp ý, phản biện, nhưng cần bình tĩnh, khách quan, xây dựng, tin tưởng vào xu thể tất yếu của lịch sử và cũng nên biết điều (vì có thể chưa đủ thông tin và tính khách quan chẳng hạn).
5- Trên tinh thần đó, tôi xin "bình tĩnh" góp ý phản biện như sau.
Một là, để chủ động tiến lên văn minh hiện đại và đón nhận thời cơ (khoảng vài ba năm nữa) tham gia với quốc tế và nhân dân Trung Quốc thủ tiêu Chủ nghĩa Đại Hán, để cùng nhân dân TQ, ĐNÁ và thế giới có được yên bình, văn minh lâu dài, thì Đảng CS VN nên cương quyết, dứt điểm quay trở về với chính mình những năm 1945 – 1950 thế kỷ trước, khi mà Hồ Chí Minh và Đảng Lao Động VN còn có thể chủ động (đi trước) độc lập lãnh đạo và xây dựng đất nước. Nếu Đảng CSVN dũng cảm làm được việc này, thì ĐẤT NƯỚC SẼ ỔN ĐINH THẬT SỰ, vì toàn dân lại tập hợp đầy đủ chung quanh Đảng và tham gia hết mình với Đảng để xây dựng và bảo vệ đất nước (dù còn có thể có những đảng phái non trẻ chưa đủ tín nhiệm khác sẽ hình thành và cùng tham gia vào).Ổn định không thể chỉ tập trung “ngăn chặn” mù quáng bằng mọi giá cả cái xấu, lẫn cái tốt. Đổi mới thực sự, cần có sự hy sinh quyền lợi riêng của Đảng, thì sẽ Ổn định thật sự. Đồng thời cần cảnh giác kẻ địch cố tình bằng mọi cách dã man xảo quyệt trá hình, kể cả "tư vấn", "giúp đỡ" để chống phá ta, để ta không ổn định được.
Hai là, Chọn bạn, chọn đối tác chiến lược không chỉ nhìn vào quá khứ, hiện
tại, mà rất quan trọng là tương lai tiến hóa, phát triển. Khi đấu tranh giành độc lập dân tộc, ta đã chọn TQ làm bạn chiến lược, vì ta với TQ có cùng mục tiêu và cùng kẻ thù. Bây giờ phát triển tiến hóa hòa bình, mục tiêu của TQ là “thế chân Mỹ đứng đầu thế giới”, trên nền tảng Chủ nghĩa dân tộc cực đoan Đại Hán, còn ta chủ yếu là “Dân giầu, nước mạnh, xã hội Dân chủ, Công bằng, Văn minh”. Vậy là mục tiêu của ta và TQ bây giờ có cái khác nhau. Đường lối của ta làm bạn với tất cả các Dân tộc. Còn đường lối của TQ có làm bạn với tất cả các dân tộc hay không, và làm bạn kiểu gì ? Đương nhiên, dân tộc nào, nước nào VĂN MINH hơn (theo chuẩn quốc tế), ta phải quý hơn và ưu tiên hợp tác chiến lược hơn. Rõ ràng, đều là các nước lớn, cũng hay “bắt nạt” các nước bé, nhưng chế độ chính trị xã hội của Mỹ được hầu hết thế giới coi là văn minh tiên tiến hơn, cạnh tranh phát triển nghiêm chỉnh tử tế theo luật pháp quốc tế, (không bành chướng xâm chiếm ai, không có thuộc địa, không chủ động gây chiến tranh . . .thường đứng ra làm “sen đầm” (công an) quốc tế, là chỗ dựa của nhiều nước nhỏ yếu . . ). Trong khi, trừ dân số quá lớn và số ngoại tệ đang có, còn chế độ chính trị kinh tế xã hội của TQ đang tồn tại rất nhiều vấn đề lạc hậu và phức tạp, chưa thể so sánh được với Châu Âu, Mỹ, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản .v .v . . . . Có người nói rằng, tuy nhiên, là hàng xóm cận kề, ta phải dè chừng, ngộ sau này các nước văn minh, trong đó có Mỹ, có khó khăn, ta không nhờ vả được, mà TQ trả thù thì sao đây? Điều lo xa này khó có cơ sở để tồn tại. Bởi lẽ, thời đại này không thể bưng bít hoặc bóp méo mãi được thông tin, người TQ lại ra thế giới sinh sống làm ăn ngày càng nhiều, vì vậy, cùng với những thất bại mà TQ sẽ chuốc lấy, cuối cùng, nhân dân TQ sẽ chọn con đường văn minh của nhân loại để hòa đồng bình đẳng nhân quyền với thế giới, chứ không chọn mãi con đường Thiên triều ác bá áp đặt độc tài lạc hậu. Nếu chỉ vì sợ TQ chưa kịp tiến bộ nên sẽ trả thù, thì kể cũng hèn nhát thật. Tôi tin là TƯ ta không đến nỗi như vậy, còn nhân dân TQ cũng không đến nỗi quá trì trệ, u mê mãi như hiện nay.
Ba là: Đã biết Trung Quốc rất nhiều mưu mẹo, xảo trá, thì các nước cần cân nhắc từng câu, từng chữ, từng việc trong quan hệ quốc tế với TQ. Ví dụ: đấu tranh để “giữ nguyên trạng” thì cần nêu rõ “nguyên trạng” vào thời điểm nào? Bởi nếu không cẩn thận, thì TQ ỉ lại nước lớn, họ cứ làm ào, lấn tới, sau khi đã lấn chiếm hết Biển Đông, rồi biển Nam dương, Ấn độ dương . . . rồi thì lúc đó họ sẽ chấp nhận “giữ nguyên trạng” với thế giới? Cần Giữ nguyên trạng như khi có Luật biển quốc tế!
Bài thứ ba (tiếp theo):
Bốn là, song song với đấu tranh theo luật quốc tế cụ thể trên biển, trên không với TQ, thế giới nên tìm mọi cách giúp cho 1,4 tỷ nhân dân Trung Quốc nhận thức được rằng, văn minh thế giới hiện tại đang ở trạng thái nào, và hòa bình, hạnh phúc, phát triển . ., thậm chí “thay thế Mỹ đứng đầu thế giới” là phải văn minh bằng hoặc hơn Mỹ như thế nào, không còn giống như những năm Giải phóng quân TQ tràn vào “giải phóng” Tây Tạng, Nội Mông, Tân Cương và khu dân tộc Choang (Bách Việt). . .Trong khi rất nhiều nước, rất nhiều nơi hiện nay đã chấp nhận TỰ DO, DÂN CHỦ lấy ý kiến nhân dân về những vấn đề lớn, như sáp nhập, hay tách ra khỏi một cộng đồng nào đó, nếu họ thấy cần thiết. Vì vậy, một nước quá lớn, quá cồng kềnh nhiều bệnh hoạn do nhiều đại dân tộc khác biệt bị động sáp nhập và bị mất tự do dân chủ như tại TQ vừa qua, thì nên tìm cách thuyết phục họ tự tách ra thành những nước độc lập. Điều đó thực chất là đem lại tự do dân chủ và hạnh phúc cho nhân dân các dân tộc Trung Hoa. (Các dân tộc trên giải đất Trung Hoa nhất định sẽ hết thời sợ hãi đàn áp, cũng không muốn gây chiến áp bức các nước nhỏ để có hạnh phúc, để phát triển kinh tế và văn minh). Họ sẽ được tự do lựa chọn chế độ chính trị văn hóa xã hội nào mà họ mong muốn, xã hội của họ sẽ được phát huy cạnh tranh sáng tạo vươn lên theo đặc điểm dân tộc của mình, chứ không bị o ép nằm dưới một cái ô to lớn, theo một đường lối chung cổ điển lỗi thời do mấy chục ông lớn nghĩ ra, mà cứ hiểu nhầm là được làm công dân của một Dân tộc vĩ đại ! Rút kinh nghiệm hiện tượng Ukraine, nếu Nga và Ukraine đều bình tĩnh tìm giải pháp sao cho cả hai bên đều chấp nhận được, thì làm sao đến nỗi xẩy ra đụng đầu quốc tế tại đó như hiện nay. Nếu TQ bàn bạc thật chân tình, biết điều tôn trọng luật pháp quốc tế trong bình đẳng khai thác Biển Đông với các nước ĐNÁ, và cộng đồng thế giới, trong đó có VN, thì làm sao TQ đã bị cô lập thảm hại, nên vừa qua đành phải vung tiền ra khắp nơi để mua chuộc các cơ quan tham mưu chiến lược của các nước, mua dư luận thế giới và các quan chức lãnh đạo các quốc gia. Nếu tính hiệu quả toàn “đại cục”, thì cách làm mà TQ đang tiến hành là vô cùng u mê, lầm lẫn, lại quá kém hiệu quả (dù đã tham khảo “Kinh dịch”, “Thời vận”), nhất là về phương diện kinh tế. Vẫn biết rằng, TQ đang quá thừa lao động, nợ công quá lớn và bí tắc mẫu thuẫn nội tại trong sử lý tiếp yêu cầu đầu tư của giới tài phiệt quân sự (dù đã quá mức so với thu nhập binh quân đầu người), nhưng TQ hoàn toàn có thể đổi mới theo con đường khác: Hòa bình, đoàn kết, trân trọng các khác biệt, kể cả đối lập, để xây dựng một khối cộng đồng Trung Hoa văn minh như các cộng đồng các quốc gia độc lập khác trên thế giới hiện nay.
Năm là, VN đã từng bị TQ xâm lược nhiều lần, chiếm cả thủ đô, rồi cuối cùng khi đất nước hưng thịnh và thời cơ đến, VN lại đấu tranh đuổi được quân xâm lược TQ ra khỏi đất nước. Nay tuy mấy khu vực biển đảo là tài nguyên của ông cha chúng ta để lại, chúng ta không thể để mất, nhưng cách thức lấy lại và bảo vệ, chúng ta cần tính đến cái “đại cục” của thế giới và thời điểm giành lại. Tôi nhận định rằng, chắc chắn sẽ đến lúc nhân dân TQ và nhân dân thế giới nhận thức ra, rằng cái Chủ nghĩa dân tộc cực đoan Đại Hán là nguyên nhân của bất ổn và đại nguy hiểm trên toàn hành tinh, giống như thế giới khi đã nhận ra đại nạn phát xít Đức Ý Nhật trước đây, nên sẽ đồng loạt tập hợp lực lượng đoàn kết hòa bình “thủ tiêu” Chủ nghĩa Đại Hán, chính lúc đó mới là thời cơ để chúng ta tham gia toàn lực, trong đó có việc giành lại hoàn toàn các biển đảo của nước ta, giống như trong Đại thắng của Đồng minh trước nạn phát xít, bằng Cách mạng Tháng Tám 1945 dân ta đã nổi dậy giành lại được cả nước vậy.
Sáu là, bởi vì theo cơ chế cũ quốc doanh làm chủ lực (xương sống), nhà nước lâu nay không cho và không đầu tư cho kinh tế tư nhân cạnh tranh phát triển tự do, do đó hiện nay lực lượng các tập đoàn kinh tế tư nhân còn rất yếu, nhỏ bé, chưa đủ sức thay ngay được “xương sống” quốc doanh, trong khi việc cải tạo các tập đoàn quốc doanh đang đòi hỏi chính sự tỉnh ngộ (đạo đức và tri thức) của con người,nghĩa là không thể “nhẩy cóc”. Dù chúng ta rất cần cương quyết cải tạo các tập đoàn KT quốc doanh cho chúng minh bạch, làm ăn có hiệu quả, nhưng lại vẫn cần tỉnh táo, thân trọng, để tránh mất chỗ dựa, dù tạm thời (vì khi kinh tế tư nhân chưa vươn lên kịp trong khi đó các doanh nghiệp nước ngoài thì tràn vào), và hơn nữa, đừng làm ào ào để tránh thất thoát tài sản của toàn dân một lần nữa do sơ hở sai sót trong việc xắp xếp lại. Hãy đầu tư vào kinh tế tư nhân (cả chính sách và tài chính) như Nam Hàn đã làm, điều này Đỗ Mười đã sang tận nơi khảo sát, nhưng không vận dụng.
Bẩy là, Hội nhập thế giới là tất yếu và lẽ sống. Hãy thật lòng từ bỏ ảo tưởng CSCN “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” của Các Mác, nghiêm túc quay về với thực tế cuộc sống, CÔNG KHAI MINH BẠCH “Làm theo năng lực, hưởng theo khả năng”. Về đại cục: Rất cần ổn định, nhưng muốn ổn định thật sự, thì lại phải cương quyết khắc phục thể chế chính trị lạc hậu và mọi tệ nạn xã hội. Bởi có làm được như vậy, thì mới giữ được ổn định thật. Nếu ai muốn giữ vũng vị trí lãnh đạo của Đảng CSVN thì phải tham gia đổi mới đường lối, hiến pháp, luật pháp, cương lĩnh, điều lệ. CS Liên Xô không đổi mớinên đã sụp đổ. Obama và Putin đều đổi mới (theo cách của mình) thì nhân dân tín nhiệm đưa lên. Tập Cận Bình thực tế muốn dẹp được loạn ở các ngành, đặc biệt ở khu vực kinh tế - quốc phòng đại quy mô, giữ yên được tất cả các khu tự trị, kể cả Hồng Kông, lôi kéo được Đài Loan thì đã nghĩ ra mẹo đổi mới bằng cách từ bỏ tư duy “ba đại diện”, “phát triển hài hòa”, dương cao ngọn cờ “Dân tộc Đại Hán vĩ đại” liều lĩnh xông ra đánh chiếm đại dương. Đó là đổi mới theo kiểu mưu mẹo của ông ấy (VN đã trải qua nhiều thất bại trước mưu mẹo xảo trá Tôn Tử của TQ, điển hình là vụ “Nỏ thần Mỵ Châu”). Ta cần bình tĩnh, tôn trọng, giữ hữu nghị và rất mềm dẻo với TQ, nên càng không thể quên điều đó được. Nhưng ta có một cái rất vĩ đại, vĩ đại thực, không chỉ bạn bè chân thành, mà cả “địch thủ” các loại đều trân trọng, đó là học thuyết Hồ Chí Minh: “Đoàn kết, đại đoàn kết. Trân trọng, hợp tác, liên kết các khác biệt, kể cả đối lập” để sáng tạo vì mục tiêu chung là hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giầu mạnh, “sánh vai với cường quốc 5 châu”. Do đó, Đảng muốn tồn tại, Đảng dứt khoát phảiđổi mới, tức là quay hoàn toàn về với học thuyết Hồ Chí Minh “Đoàn kết – Sáng tạo” của nước ta . Mặt khác, một anh cấp ba, hội nhập với những anh đại học và bậc thày đại học. . .trong tình hình đạo đức và luật pháp thế giới đang bị coi thường, thì chúng ta cần tỉnh táo hết sức. Không nên chủ quan, bởi bản chất đảng ta, nếu đã không “biến chất” thì là một đảng gốc gác thành phần và tư duy công nông chưa có thực tế tầm khu vực và thế giới hiện đại.Với thực tâm và tinh thần khiêm tốn, hãy tiếp tục bổ sung trí tuệ bằng cách khuyến khích và thu hút tối đa, tài năng, kinh nghiệm của giới trí thức và các quan chức tài ba trong và ngoài nước, đặc biệt là mấy viện nghiên cứu “dân lập” do những nhà khoa học thức thời sáng tạo lập ra, kể cả các chuyên gia thiện tâm nước ngoài …tư vấn vào từng nội dung, từng vấn đề cải cách, chiến lược phát triển và hội nhập cho hiệu quả. Tất nhiên, rất cần cảnh giác với các “chuyên gia tư vấn” đầy mưu ma chước quỷ các loại đã bị TQ mua rồi.
Tám là, Trước đây cha ông ta gian khổ vào sống ra chết không nề hà. Nay gọi là có nhiều khó khăn thì cũng là có khó, nhưng chủ yếu là dân chúng khó khăn, nhưng chúng ta, lãnh đạo Đảng và Nhà nước các cấp, đa số vẫn có đủ “tiềm lực” tích lũy được, chỉ cần thực thi tự do dân chủ thực chất, bớt tham lam tiêu cực, làm ăn cho liêm khiết, đứng đắn công khai “trong sạch, vững mạnh”, thì Đảng ta sẽ lấy lại được lòng tin của dân và từ đó cách mạng VN lại tiếp tục vững mạnh tiến lên. (Như ý kiến một số người, nếu làm “cách mạng vô sản” một lần nữa để thu hồi hết phần tài sản của đất nước đã bị tham nhũng tiêu cực, thì cũng được, nhưng nên nhớ rằng, vì sai lầm mang tính hệ thống thì số người vô tình, hoặc “bị động” tham nhũng tiêu cực do cơ chế sai lầm cho phép là “một số không nhỏ”, vì vậy không nên theo cách đó, vì một mặt sẽ làm rối loạn xã hội (ta đã có kinh nghiệm sai lầm trong xử lý sau 30 tháng 4, 1975), mặt khác sẽ bị lợi dụng chống tham nhũng để các phe phái đánh lẫn nhau (như TQ đang làm) rất có hại cho thế chiến lược chung của đất nước ta hiện nay. Hãy động viên cán bộ đảng viên chân chính phát huy sáng kiến để xử dụng có ích nhất số tài sản “vớ may” đã tích cóp được để làm giầu cho đất nước, ví dụ mạnh dạn đầu tư hữu ích cho kinh tế tư nhân.
Tóm lại: Chúng ta hãy bỏ hết hận thù cá nhân, hãy từ “tầm cao vũ trụ” mà nhìn xuống các sự kiện - không đi vào lý luận phức tạp - để thấy toàn cục bức tranh VN và thế giới. Chủ nghĩa cộng sản đã như một trong những công cụ có hiệu quả để giúp cách mạng VN giành độc lập và thống nhất đất nước, nhưng nay không thể là chỗ dựa để xây dựng nước VN tự do dân chủ văn minh và giầu mạnh. VN cần quay về với những nền tảng Tự do Dân chủ Cộng hòa, để Dân làm chủ thật sựmà chính VN đã sớm dàn dựng được ngay sau cách mang tháng Tám năm 1945, có cái gì đó như kiểu Xã hội Dân chủ Bắc Âu mà VN tuy thấy trước, nhưng đã bị các thế lực ngoại lai ngăn cản, nên VN hôm nay rất đáng nghiêm túc đại đoàn kếtquay trở lại nền văn minh tồn tại quá ngắn ngủi đó của chính mình trước đây để từ đó vươn lên.
| Ngày 10 tháng 6, 2015 Người Hà Nội |
Tư duy tham khảo:
Phần chung của Thế giới:
1. Về mặt lý luận: Sự lẫn lộn, mơ hồ, mâu thuẫn chủ yếu nằm trong hai hệ thống tư tưởng lớn chi phối toàn bộ thế giới vừa qua:
Một là: Hệ tư tưởng tự nhiên (tồn tại từ nô lệ, phong kiến, đến tư bản): “Làm theo năng lực, hưởng theo khả năng”(tức là bản thân làm được đến đâu, thì được thụ hưởng đến đấy). Nó đảm bảo sự TỰ DO cạnh tranh cho HẠNH PHÚC của từng cá nhân. Các Mác cũng đã khẳng định: Thắng lợi thuộc về người (hay giai cấp) “có năng suất lao động cao hơn”, tức là tài giỏi, chăm chỉ, sáng tạo, thông minh hơn thì sẽ giầu có sung sướng hơn. Tuy nhiên, khi thế giới chưa có đủ luật pháp và văn hóa còn thấp, điều đó đã để ngỏ con đường cạnh tranh cho kẻ mạnh ức hiếp kẻ yếu, nhẹ thì áp bức bóc lột, nặng thì là đánh chiếm, xâm lược nước người.
Hai là: Hệ tư tưởng lý thuyết (Chủ nghĩa cộng sản): “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” (tức là làm thì tùy theo sức lực và khả năng, nhưng hưởng thì được theo nhu cầu, mong muốn). Nó chứa đựng nguyện vọng TỰ DO HẠNH PHÚC bình đẳng rất nhân đạo cho toàn xã hội , từ người tài giỏi, khỏe mạnh, chăm chỉ, đến người bình thường, thậm chí ngu hèn, yếu đuối, lười nhác . ., nhưng từ đó, khi xã hội chưa đủ thừa thãi để đáp ứng theo ý muốn của tất cả, nó đã mở đường chonạn tham lam biển thủ của công (công hữu), tiêu cực hà hiếp bất công (do độc quyền lãnh đạo), dẫn đến ỷ lại, trì trệ, làm thui chột sức cạnh tranh sáng tạo, nguyên nhân của nghèo đói, suy thoái đạo đức xã hội.
Như vậy có KẾT LUẬN đầu tiên rằng, hệ tư tưởng 1 mang tính thực tế, hệ tư tưởng 2 mang tính chất ước mơ, ảo tưởng. Cho nên nếu ai đó có ước mơ tốt đẹp, hay chỉ có đầu óc thực tế hơn, thì không thể vì thế mà phê phán người ta làphản động hoặc cách mạng hơn được. Sự nhầm lẫn sâu xa rất cực đoan đầu tiên là như vậy đã gây chia rẽ sâu sắc trên thế giới. Tốt nhất là không nên chủ quan phê phán áp đặt lẫn nhau về sai đúng trong quan điểm và ước mơ, mà phải đoàn kết, tôn trọng lẫn nhau.
2. Về mặt thực tiễn:
Thực ra, sau khi phe XHCN tan rã, mâu thuẫn ý thức hệ TBCN và CSCN
dường như đã đến hồi kết thúc. Mọi ảo tưởng mơ mộng và hy vọng hão huyền vào “đấu tranh giai cấp một mất, một còn”của CN Mác – Lê đã tan vỡ, và Nhân loại lại quay dần về với hệ tư tưởng tự nhiên. Mọi mâu thuẫn, sung đột to nhỏ trên thế giới bây giờ hầu như lại trở lại với “cạnh tranh cùng tồn tại”, với các chứng bệnh quen thuộc: Cá nhân chủ nghĩa và Dân tộc chủ nghĩa, mạnh được yếu thua. Sau bao thử thách cạnh tranh cam go trầy trật, sau mấy đại chiến thế giới do chính các nước TBCN phương Tây gây nên (trong đó có sai lầm về “Dân tộc thượng đẳng”), nay họ đã “tỉnh ra”, đã và đang dẫn đầu công cuộc hoán cải, hoàn thiện hệ thống luật pháp, đấu tranh liên tục cho tiến bộ, nhân đạo, văn minh xã hội . . .như chúng ta đang chứng kiến. (Lưu ý: Lâu nay, do thể chế và chính sách của mình, những bộ óc “Thượng đẳng” có thật của nhiều dân tộc trên thế giới đã bị hút về Hoa Kỳ, ngẫu nhiên làm cho nước này lại thực tế trở thành đất nước của những tính chất “Thượng Đẳng”).
Do đứng xa (ra một góc) quan sát thực tế để thấy được nhiều khuyết tật của cả TBCN và XHCN, nên giới “năng suất lao động cao” ở các nước tư bản Bắc Âu đã chọn con đường CN Xã hội Dân chủ (CNXH không để một đảng độc quyền) với thể chế chính trị đảm bảo cho giai cấp công nhân và nông dân có quyền cử đại biểu của mình tham gia vào các hệ thồng quản lý lãnh đạo đất nước để đấu tranh hòa bình có kết quả cho quyền lợi hợp lý chính đáng của các tầng lớp cần lao (có năng xuất lao động thấp). Còn ai có “năng suất lao động cao” hơn, dù thuộc tầng lớp nào, nhân dân sẽ chọn mời vào các hệ thống quản lý lãnh đạo đất nước. Đó là “phướng án” quá độ hợp lý nhất để Nhân loại tiến đến hòa bình, ấm no, hạnh phúc thật sự.
Tóm lại: Mục đích cách mạng vô sản (lý thuyết) của Mác – Lê là tốt đẹp, nhưng lại rất ảo tưởng, không thực tế, hơn thế đã rất sai lầm trong giải pháp thực hiện (tiêu diệt, phá tan, khác ta là địch, cấm đoán tự do, dân chủ, đưa công nhân, nông dân lên lãnh đạo) nên đã làm lộn xộn xã hội nhiều nước, tuy nhiên chính nó đã thức tỉnh được cả thế giới trước hệ thống khuyết tật của hệ tư tưởng tự nhiên hiện đại TBCN. (Tự do cạnh tranh mạnh được yếu thua, theo luật rừng).
Chủ nghĩa Xã hội Dân chủ Bắc Âu cho ta một phương án tỉnh táo, trí tuệ, thức thời, vừa tầm với Nhân loại tại thế kỷ XXI hiện nay, cái điều mà Hồ Chí Minh đã nhận ra từ 1944 – 1945, nhưng bị cản phá, ngăn chặn từ nhiều phía, không thực hiện được!